Hải long tu, do hải long tu bản cùng hải long tu mao cấu thành, chỉ là những tấm ván hình lược kéo dài từ hàm trên của các loài cá voi thuộc bộ Cá voi mõm tấm, thay thế răng, rũ xuống từ hàm trên, xếp hai bên khoang miệng của cá voi mõm tấm. Cá voi mõm tấm dùng hải long tu để lọc thức ăn trong nước biển như sinh vật phù du và các động vật khác1.
Chi tiết về tấm hải long tu của cá voi xanh, cho thấy nó có thể lọc thức ăn từ nước biển
Mục lục
Chức năng của hải long tu
Sửa đổi
Cá voi mõm tấm sử dụng hải long tu để lọc thức ăn. Trước tiên, cá voi mõm tấm há to miệng, nuốt một lượng lớn nước biển vào khoang miệng, trong đó có các sinh vật phù du, nhuyễn thể và cá nhỏ giúp cá voi mõm tấm duy trì sự sống. Sau khi nuốt, cá voi mõm tấm khép miệng một nửa, đẩy lưỡi lên hàm trên, đẩy nước biển trong miệng ra ngoài, còn các sinh vật phù du sẽ bị giữ lại trong hải long tu hoặc khoang miệng. Cá voi sẽ nuốt phần thức ăn còn lại.
## Kỳ Lân
### Biên tập
Sọ của Kỳ Lân, có thể nhìn thấy rõ ràng Kì Lân trong sọ.
### Cấu tạo
### Biên tập
Kỳ Lân không cấu thành từ xương, trên thực tế, chúng được cấu tạo từ protein keratin. Chất này cũng tạo nên tóc, vảy, sừng, móng vuốt và móng tay.
### Tiến hóa
### Biên tập
Hóa thạch sớm nhất chứng minh sự tồn tại của Kỳ Lân có từ 15 triệu năm trước, nhưng Kỳ Lân thực sự hiếm khi tạo thành hóa thạch, do đó một số nhà khoa học tin rằng sự tồn tại của chúng sớm hơn nhiều. Tuy nhiên, những con cá voi râu sớm nhất vẫn có răng.
### Chiều dài
### Biên tập
Tùy thuộc vào loài, chiều dài Kỳ Lân (theo chiều ngang, tức là chiều dài cơ thể cá voi) sẽ khác nhau. Chiều dài của Kỳ Lân thường từ 0,5 mét đến 3,5 mét. Trọng lượng có thể lên đến 90 kg.
Trên tấm phiến xương của loài kình, những sợi tơ thường được gọi là “mao”, “lông” và “tơ”.
Loại kình | Độ dài tấm phiến (cm) | Độ dài tơ (cm) | Màu sắc
------- | -------- | -------- | --------
Kình vây lưng | 230-360 | 3 mét, có lời đồn kể rằng từng thấy tơ dài tới 5. 8 mét | Xám tối hoặc đen
Kình vây lưng Bắc/Nam | 205-270 | Không rõ | Nâu đậm, xám tối và đen
Kình vây lưng nhỏ | 213-230 | Không rõ | Màu ngà voi
Hải Kình () dài 140 đến 180 trượng, tư liệu không đầy đủ, màu vàng nhạt.
Minh Kình (Minke) dài 230 đến 360 trượng, vây dài 20 đến 30 tấc. Tại Bắc Đại Tây Dương, Minh Kình có màu sữa trắng, tại Bắc Thái Bình Dương có màu vàng nhạt. Tại Nam bán cầu, Minh Kình thường có phần trước màu sữa trắng, phần sau màu xám đậm.
Tể Kình (Balaenoptera borealis) dài 300 đến 410 trượng, vây dài 75 đến 80 tấc, màu xám đen, có thể có ánh kim loại.
Bái Đế Kình (Balaenoptera brydei).
Bố Thị Kình (): Dài 250-365 cm, tối đa 50 cm, phần lớn có màu đen hoặc xám xanh. Râu cá voi ở gần đỉnh hàm trên, có màu trắng sữa toàn bộ hoặc một phần (đôi khi có những sọc xám), lông tơ thường có màu nâu hoặc xám.
Lam Kình (): Dài 270-395 cm, dài 90 cm đến 1 mét, màu đen nhạt hoặc đen xanh, một số con cá voi già có lông tơ râu thô ráp có màu xám.
Trường Túc Kình (): Dài 260-480 cm, dài 70 đến 90 cm, bên trái có màu xám tối, phía trước bên phải có màu trắng.
Humpback Whale: (Tên tiếng Anh, không dịch sang Hán Việt)
Hải Long Đại Xương, thân dài ước chừng 270-400 thước, cao từ 70 đến 100 phân, lông đen hoặc màu ô liu, đôi khi điểm xuyết vài đốm trắng, thường có những sợi lông màu xám trắng.
Trong thời đại chưa có nhựa, bởi lẽ tính đàn hồi và độ bền tốt, Hải Long Đại Xương thường được con người dùng để chế tạo cổ áo, roi, khung dù và dây buộc eo. Có những chiếc đàn vi-ô-lông cũng sử dụng Hải Long Đại Xương để bọc cán đàn.